Thứ 4,01/05/2024,

Thống kê Thống kê

Đang truy cập: 20,111
Tổng số trong ngày: 1,608
Tổng số trong tuần: 62,038
Tổng số trong tháng: 1,607
Tổng số trong năm: 1,516,987
Tổng số truy cập: 38,997,617

Trung tâm Y tế huyện Lạng Giang

|
Lượt xem:
Cỡ chữ: A- A A+
Đọc bài viết

Website: http://ttytlanggiang.com/ 

Cơ cấu tổ chức bộ máy của TTYT cụ thể như sau:
Trung tâm có tổng số 20 khoa phòng: 06 phòng chức năng, 14 khoa chuyên môn và 23 trạm Y tế xã, thị trấn trực thuộc.
1. Ban giám đốc: 01 Giám đốc, 04 Phó Giám đốc.
2. Tổng số khoa, phòng: 06 phòng chức năng, 14 khoa chuyên môn gồm:
- Phòng Tổ chức hành chính
- Phòng Tài chính kế toán
- Phòng Kế hoạch - Nghiệp vụ
- Phòng Dân số và truyền thông
- Phòng Điều dưỡng
- Phòng Quản lý chất lượng
- Khoa Kiểm soát dịch bệnh-HIV/AIDS (bao gồm cả cơ sở điều trị Methadone)
- Khoa Y tế công cộng  và dinh dưỡng
- Khoa An toàn thực phẩm
- Khoa Phụ sản - Chăm sóc sức khỏe sinh sản
- Khoa Khám bệnh đa khoa
- Khoa Đông y - Phục hồi chức năng
- Khoa Nội lây
- Khoa Ngoại tổng hợp.
- Khoa Dược - Vật tư, thiết bị y tế
- Khoa Hồi sức cấp cứu - Chống độc
- Khoa Nhi
- Khoa Xét nghiệm
- Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Thăm dò chức năng
- Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn
3. Đội ngũ cán bộ y tế gồm:
* Ban Giám đốc 05 người:
- Giám đốc Trung tâm Y tế: Bác sĩ CKII. Nguyễn Doanh Phương
          - Phó Giám đốc Trung tâm Y tế 04:
          + Thạc sỹ, bác sĩ CKI. Đặng Văn Hậu
          + Bác sĩ CKI Nguyễn Văn Toản
          + Bác sĩ CKI Nguyễn Mạnh Hà
          + Kỹ sư Đỗ Tất Nhiên
- Lãnh đạo khoa/phòng, nhân viêm Trung tâm Y tế 198 người:
          + Bác sỹ 60 người: Bác sĩ CKI 10; Bác sĩ chuyên khoa định hướng, bác sĩ đa khoa 43
          + Y sỹ, Điều dưỡng, kỹ thuật viên, Hộ sinh, YTCC 111 người: Điều dưỡng CKI 02, Y tế công cộng CKI 01; Cử nhân điều dưỡng/KTV/YTCC đại học 36; cao đẳng 35; trung cấp 27
          + Dược sĩ 11 người: Dược sỹ đại học 06; cao đẳng 03; trung cấp 02
          + Bộ phận giúp việc 21 người: Thạc sỹ 02; đại học 11; 08 cao đẳng và trung cấp.

Giới thiệu về Trung tâm y tế Huyện Lạng Giang

Huyện Lạng Giang là huyện miền núi, nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Bắc Giang, có vị trí quan trọng là cửa ngõ nối liền các tỉnh phía Đông Bắc với tỉnh Bắc Giang; ranh giới hành chính huyện: Phía Bắc giáp huyện Hữu Lũng (tỉnh Lạng Sơn) và huyện Yên Thế; phía Nam giáp thành phố Bắc Giang và huyện Yên Dũng; phía Đông giáp huyện Lục Nam; phía Tây giáp huyện Tân Yên. Diện tích tự nhiên là 24.401,91 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 75,58%, đất phi nông nghiệp chiếm 24%. Toàn huyện có 23 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 21 xã và 2 thị trấn), trong đó thị trấn Vôi là trung tâm hành chính của huyện. Dân số toàn huyện là 207.408 người (Số liệu tính đến ngày 30/6/2019), trong đó người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 63,4%.Đảng bộ huyện có 44 tổ chức cơ sở đảng, với 8.233 đảng viên, trong đó có 29 đảng bộ (23 đảng bộ xã, thị trấn, 6 đảng bộ khối cơ quan), 15 chi bộ trực thuộc Huyện ủy; 416 chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở (trong đó có 284 chi bộ thôn, khu phố).

Huyện Lạng Giang có vị trí địa lý tương đối thuận lợi: Có một số trục đường giao thông quan trọng của Quốc gia chạy qua: Quốc lộ 1A (Bắc Giang-Lạng Sơn), đường cao tốc Bắc Giang- Lạng Sơn, đường sắt Hà Nội- Lạng Sơn, Kép - Hạ Long. Lạng Giang là 1 trong 4 huyện, thành phố của tỉnh được xác định là trọng điểm phát triển kinh tế - xã hội, trung tâm huyện cách không xa các khu công nghiệp, đô thị lớn của tam giác kinh tế phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, là đầu mối giao lưu kinh tế, khoa học, công nghệ và thu hút đầu tư của cả nước, nơi tập trung đông dân cư, với tốc độ đô thị hóa nhanh sẽ là thị trường tiêu thụ lớn về nông sản hàng hóa và các hàng tiêu dùng khác.

2. Địa hình: Địa hình huyện Lạng Giang có cả đồi núi và đồng bằng có thể chia thành 3 dạng chính: Địa hình vùng cao, địa hình vùng thấp và dạng địa hình vùng đồng bằng đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi, phát triển nền nông nghiệp phong phú đa dạng.

3. Tài nguyên: Huyện Lạng Giang có các loại tài nguyên đất, nguồn nước mặt, tài nguyên rừng. Với 4 nhóm đất khác nhau: Phù sa, xám bạc màu, thung lũng, đất đỏ vàng,...phù hợp với nhiều loại cây trồng như lúa, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày, lâm nghiệp. Tận dụng nguồn nước mặt của sông Thương và ngòi Bừng, ngòi Quất Lâm chảy qua địa bàn và trên 2.130 ha mặt nước hồ, đập, ao nhỏ đáp ứng được nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phục vụ cho sinh hoạt của nhân dân trong huyện. Toàn huyện có 2.265,32 ha rừng, trong đó diện tích rừng sản xuất 1.133 ha, rừng tái sinh tự nhiên 500 ha,... 

4. Văn hoá: Lạng Giang là huyện có truyền thống văn hoá phát triển lâu đời với 230 cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau như: Đình, đền, chùa, miếu, văn chỉ, nhà thờ,… Trong đó có 19 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 86 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Tiêu biểu như: Cụm đình, chùa và cây Dã Hương nghìn năm tuổi (xã Tiên Lục); đình Phù Lão, đình Trừng Hà (xã Đào Mỹ); đình Am, nhà thờ và mộ Phạm Văn Liêu (xã Xuân Hương); chùa Thông, văn chỉ Bằng (xã Nghĩa Hòa); .... Lạng Giang vẫn duy trì được nhiều câu lạc bộ văn nghệ mang tính đặc trưng như: Hát Then (thôn Cần Cốc), hát Soọng Cô (thôn Cẩy) xã Hương Sơn; Quan họ ở thôn Phú Độ (xã Phi Mô), phố Vôi (thị trấn Vôi),...; câu lạc bộ chèo xã An Hà và thôn Đại Giáp, xã Đại Lâm; câu lạc bộ Violon (làng Then), xã Thái Đào. Các lễ hội được cộng đồng dân cư bảo tồn và phát huy, tiêu biểu như lễ hội Bừng (xã Tân Thanh), lễ hội Tiên Lục (xã Tiên Lục),… thu hút đông đảo nhân dân và khách thập phương thăm quan.

5. Phát triển kinh tế: Tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu năm 2018 (theo giá cố định năm 2010) đạt 11.097,1 tỷ đồng, giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu tăng 17,4%, trong đó: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng đạt 4.870,8 tỷ đồng, tăng 20,3%; giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt 2.348 tỷ đồng, tăng 6%; giá trị sản xuất ngành dịch vụ đạt 3.878,3 tỷ đồng, tăng 21,5%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực, tỷ trọng nông lâm thuỷ sản 22,32%; công nghiệp - xây dựng 43,88%; dịch vụ 33,8%. Tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội: 7.500 tỷ đồng, đạt 180,7% kế hoạch. Trên địa bàn huyện có 07 cụm công nghiệp với 11.060 lao động, thu nhập bình quân khoảng 5 triệu đồng/người/tháng.


Chưa có lời bình nào. Hãy là người đầu tiên.