Thứ 2,20/05/2024,

User Online: 18,194
Total visited in day: 14,411
Total visited in Week: 27,863
Total visited in month: 292,163
Total visited in year: 1,807,543
Total visited: 39,288,173

Ung thư vú – Những điều cần biết

|
Views:
Font size: A- A A+
Đọc bài viết

Hiện nay, bệnh ung thư vẫn là nhóm bệnh lý không lây nhiễm luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của ngành y tế và toàn xã hội. Theo Bộ Y tế, gánh nặng ung thư tại Việt Nam ước tính đã tăng gấp 3 lần sau 30 năm và điều đáng lo ngại hiện nay là bệnh nhân ung thư đang có xu hướng trẻ hóa.

Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc mới ung thư xếp thứ 90/185 quốc gia và tỷ lệ tử vong do ung thư xếp thứ 50/185 quốc gia. Ước tính có 182.563 ca mắc mới và 122.690 ca tử vong do ung thư. Cứ 100.000 người thì có 159 người chẩn đoán mắc mới ung thư và 106 người tử vong do ung thư. Hiện có hơn 350.000 người Việt Nam đang sống với bệnh ung thư. Một nghiên cứu của Bệnh viện Trung ương Huế về các ung thư vùng đầu - cổ được chẩn đoán ở giai đoạn 2010-2020, cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân trẻ dưới 40 tuổi là 11,2%, tăng gần gấp đôi so với số liệu 10 năm trước đó.

 

Tuy nhiên, với sự phát triển, tiến bộ vượt bậc của y học như hiện nay, ung thư không còn là nỗi sợ hãi và ám ảnh bởi bệnh ung thư có thể được chữa khỏi nếu được phát hiện sớm, kịp thời và nhờ những tiến bộ mới trong chẩn đoán và điều trị. Ngày càng nhiều bệnh nhân ung thư đã được chữa khỏi hoàn toàn.

Trong đó, ung thư vú là bệnh phổ biến hàng đầu ở nữ giới. Tỷ lệ mắc mới chuẩn hóa theo tuổi khu vực Đông Nam Á là 41,2/100.000 phụ nữ và tử vong là 15/100.000 phụ nữ, con số này ở Việt Nam lần lượt là 34,2/100.000 nữ giới và 13,8/100.000 phụ nữ. Ung thư vú là bệnh có tiên lượng tốt nếu được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn sớm. Nghiên cứu ở các nước châu Á đã chỉ ra tỷ lệ sống thêm 5 năm trong khoảng từ 56,5% đến 86,7%. Ở một số quốc gia Đông Nam Á như Malaysia, Thái Lan, những bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn sớm (I, II) có tỷ lệ sống thêm 5 năm có thể từ 80,7% - 94,4%, trong khi nếu chẩn đoán ở giai đoạn muộn (III, IV) chỉ là 23,3% đến 59,7%. Việt Nam, bệnh nhân ung thư vú nếu được chẩn đoán ở giai đoạn sớm tỷ lệ sống thêm 5 năm có thể lên đến 90%, thậm chí một nghiên cứu gần đây trên nhóm phụ nữ dưới 35 tuổi đã chỉ ra tỷ lệ sống thêm toàn bộ 10 năm ở giai đoạn sớm là trên 80%.

Ngày 14/7/2023, Chính phủ vừa ban hành Quyết định 841/QĐ-TTg cập nhật Lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030, theo đó mục tiêu giảm 20 - 25% tỷ lệ tử vong trước 70 tuổi do các bệnh ung thư, tim mạch, đái tháo đường và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính thông qua dự phòng và điều trị, nâng cao sức khỏe tinh thần và thể chất. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần tích cực tham gia và thúc đẩy triển khai mạnh mẽ các hoạt động trong khuôn khổ các Chiến lược toàn cầu, đặc biệt đối với những bệnh ung thư có thể dự phòng, phát hiện sớm và điều trị hiệu quả như ung thư vú, ung thư cổ tử cung, ung thư tuyến giáp…

Ung thư vú là căn bệnh ung thư thường gặp nhất đối với phụ nữ. Tuy nhiên, rất nhiều chị em phụ nữ không biết đến các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, đến khi phát hiện bệnh thì đã ở giai đoạn muộn, khả năng điều trị thành công không cao. Đây là bệnh rất nguy hiểm nên chị em cần chủ động tầm soát ung thư vú định kỳ nhằm phát hiện sớm bệnh. Do đó, chị em hãy lưu ý một số yếu tố nguy cơ gây ung thư vú.

Về độ tuổi, ung thư vú có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhất là những phụ nữ trên 45 tuổi. Đặc biệt, những phụ nữ không sinh con và sinh con đầu lòng sau độ tuổi 30 có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn những người bình thường. Bản thân mắc bệnh lý về tuyến vú: như xơ vú, áp – xe – vú… nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến những tổn thương khó hồi phục ở vùng vú và tiến triển thành ung thư. Hơn nữa, việc chẩn đoán ung thư vú sẽ khó khăn hơn rất nhiều nếu người bệnh mắc thêm những bệnh lý tuyến vú này. Yếu tố di truyền, nếu trong gia đình có bà, mẹ hay chị gái mắc ung thư vú thì tỷ lệ mắc ung thư vú của cá nhân đó sẽ cao hơn. Phần lớn các trường hợp ung thư vú do di truyền thường từ 2 gen BRCA1 và BRCA2. Những phụ nữ có đột biến gen BRCA1 và/hoặc BRCA2 có thể có đến 80% nguy cơ mắc bệnh. Người từng bị ung thư như ung thư buồng trứng, phúc mạc, vòi trứng hoặc đã từng xạ trị vùng ngực cũng có nguy cơ bị ung thư vú cao. Phụ nữ dậy thì sớm (trước 12 tuổi) và mãn kinh muộn (sau 55 tuổi) cũng có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn người khác. Nguyên nhân là do những phụ nữ này chịu tác động lâu dài của hormone estrogen và progesterone. Ngoài ra, béo phì cũng là một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Nguyên nhân là do phụ nữ bị béo phì thường sản sinh ra nhiều estrogen hơn so với phụ nữ khác. Béo phì không chỉ làm tăng nguy cơ dẫn đến ung thư vú mà còn làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, mỡ máu và các bệnh ung thư khác như ung thư buồng trứng, ung thư đại trực tràng, ung thư gan,…Lối sống và sinh hoạt thiếu khoa học: Chế độ ăn uống nhiều calo trong khi cơ thể lười vận động sẽ làm lượng mỡ thừa trong cơ thể tăng cao dẫn đến béo phì và làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Ngoài ra, hút thuốc lá, uống nhiều rượu bia, căng thẳng kéo dài cũng dễ dẫn đến ung thư vú. Dùng hormone thay thế như estrogen và progesteron để điều trị các triệu chứng mãn kinh cũng có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao. Phơi nhiễm phóng xạ: Tuy lượng phơi nhiễm từ tia X là rất thấp nhưng nữ giới cũng cần hạn chế tiếp xúc với môi trường phóng xạ để tránh nguy cơ mắc bệnh.

Để phòng tránh nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, chị em cần có chế độ ăn uống, sinh hoạt khoa học, khám vú thường xuyên và chủ động tầm soát sớm bệnh. Ăn nhiều rau củ quả. Những loại rau họ cải như bắp cải, bông cải xanh, cải xoăn… có khả năng giảm 20 - 40% tỷ lệ mắc ung thư vú vì trong các loại rau họ cải rất giàu glucosinolate. Hoạt chất này có khả năng ức chế sự gia tăng tế bào và ngăn ngừa sự hình thành khối u ở vú. Giảm một số chất béo, những thực phẩm chứa nhiều chất béo như bánh ngọt, bánh pizza, xúc xích… chứa nhiều chất béo không tốt cho sức khỏe, làm tăng nguy cơ ung thư vú. Vì tế để phòng ngừa bệnh này, chị em cần tránh các thực phẩm giàu chất béo. Hạn chế đồ uống có cồn, việc tiêu thụ nhiều thức uống có cồn làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú vì lượng cồn tăng cao sẽ tăng kích thích sản xuất estrogen, tạo thuận lợi cho sự phân chia tế bào. Do đó chúng ta cần hạn chế rượu bia, đồ uống có ga. Bỏ thuốc lá, những phụ nữ hút thuốc làm tăng 30% nguy cơ mắc ung thư vú, đặc biệt hút trước tuổi 20 và ít nhất 20 điếu mỗi ngày. Để phòng ngừa ung thư vú, chị em cần tránh hút thuốc lá và hít phải khói thuốc lá thụ động. Thường xuyên kiểm tra ngực là biện pháp được bác sĩ khuyến cáo để kịp phát hiện dấu hiệu của ung thư vú ngay tại nhà. Duy trì lối sống lành mạnh: hãy luôn thực hiện theo chế độ dinh dưỡng phù hợp và tập thể dục thường xuyên. Bạn nên bỏ hút thuốc và hạn chế dùng thức uống có cồn. Tập thể dục là một cách giúp bảo vệ và phòng ngừa ung thư vú rất hiệu quả vì nó làm giảm nguy cơ béo phì của cơ thể. Đặc biệt, khám định kỳ 6 tháng/lần để kiểm tra bất thường ở vú và điều trị kịp thời.

Đặng Luyến